Khai Phi's Website

Giọt Lệ Tình Xưa_Old Love’s Tears

Giọt Lệ Tình Xưa
Old Love’s Tears

Thôi em hãy bớt lệ sầu ,
Please don’t cry too much anymore ,
Lòng ta đã muốn nhuộm màu mắt em .
My heart is beginning to reflect the color of your tears .
Hãy ngừng thổn thức con tim
Please don’t sob so long .
Cho làn gió nhẹ lay mềm tóc xanh .
Then the light wind will beautifully wave your hair along .
Đời ta cũng nguyện vô tình ,
I’ve told myself: no longer fall in love .
Đây khăn em hay một mình lau đi .
Here’s a handkerchief for the tears still showing in your eyes .
Lệ khô rồi hãy ra về
Please don’t go home until they are dry
Để em giữ lấy ước thề tình xưa .
And save your heart for your old love tonight .
Lòng ta còn ngại trời mưa
I am still afraid that it would rain ,
Nước rơi hạt lạnh không chừa áo em
That cold raindrops would drench and stain your dress ,
Cho ta phải lặng trước đèn ,
And that I would have to sit quietly at night ,
Mở tờ giấy trắng thơ lên sợi buồn .
Writing a sad poem by lamplight .

Khai Phi Hạnh Nguyên
Dec. 31 , 2007

Translation into plain English by KP reviewed by Matthew Smith

Il Pleure Dans Mon Coeur_Tôi Khóc Trong Tim

Il Pleure Dans Mon Coeur
Tôi Khóc Trong Tim

Il pleure dans mon coeur
Khi lòng tôi lệ đổ
Comme il pleut sur la ville ;
Như mưa trên thành phố
Quelle est cette langueur
Là buồn nào vừa đến
Qui pénètre mon coeur ?
Tràn ngập hết con tim .

Ô bruit doux de la pluie
Tiếng mưa nhẹ trên đường ,
Par terre et sur les toits !
Tiếng mưa êm trên mái ,
Pour un coeur qui s’ennuie ,
Cho những kẻ lo buồn
Ô le chant de la pluie !
Một khúc nhạc du dương .

Il pleure sans raison
Dans ce coeur qui s’écoeure .
Trái tim ghê tởm khóc
Chẳng có lý do gì ,
Quoi ! nulle trahison ?…
Có phải lòng phản trắc ?
Ce deuil est sans raison .
Buồn đó có ra chi .

C’est bien la pire peine
Là hình phạt ghê gớm
De ne savoir pourquoi
Nếu chẳng biết vì sao
Sans amour et sans haine
Không tình yêu , oán hờn
Mon coeur a tant de peine !
Mà tim quá khổ đau !

Paul Verlaine
(1844-1896)
Gaston Nguyễn Văn Phi Long & Khai Phi dịch

La Joie Idyllique_Niềm Vui Tuyệt Vời

La Joie Idyllique
Niềm Vui Tuyệt Vời

J’ai voulu te revoir sans proclamation .
Anh muốn đến thăm em không báo trước .
Exalté de surprise , plein d’animation ,
Rất hào hứng vì bất ngờ và đầy linh động ,
Ton visage ovale serait radiant
Khuôn mặt trái soan của em sẽ rạng rỡ
Comme la lune de nos rendez-vous d’antan .
Như trăng ngày đó mình hẹn nhau .
A`ma rencontre tu m’atteindrais d’un seul bond
Gặp nhau em sẽ nhảy đến bên anh ,
Pre’sentant au gazon l’honneur le plus profond .
Cho vườn cỏ điều vinh dự nhất . (1)
Tes talons de Vénus extasieraient l’herbe .
Gót chân thần Vệ Nữ của em sẽ khiến cho cỏ sảng khoái . (2)
Leur fraicheur rendrait la pelouse superbe .
Sự tươi mát của cỏ sẽ làm vườn cỏ đẹp rực rỡ . (3)
L’Apollon semblerait rougir a`t’embrasser
Thần đẹp trai Apollon dường như đỏ mặt mà ôm em
Car il aurait peur de voir ta peau fanée .
Bởi vì Apollon có lẽ sợ thấy da em bớt tươi màu . (4)
Tes lèvres de cerise aux accueils ouverts
Đôi môi hồng đào của em trong sự đón tiếp cởi mở
Donneraient honte aux sirènes des abimes vertes .
Có thể làm cho ngư nữ dưới vực biển xanh hổ thẹn . (5)
Blanche Neige reveillée d’harmonie parfaite ,
Như nàng Bạch Tuyết thức dậy với sự hòa điệu toàn hảo , (6)
Tu jeterais les bras ronds – de couleur bien faite –
Em vòng đôi tay no tròn với làn da đẹp ,
Auxquels tant de héros se sentent attire’s ,
Đôi tay mà biết bao anh hùng cảm thấy bị quyến rũ ,
Autour de mes épaules pour m’offrir un baiser .
Lên vai anh để hôn .
Au fond de tes yeux si purs et angéliques
Trong đáy mắt trong và thiên thần biết bao của em ,
Je verrais un beau ciel de joie idyllique .
Anh có thể thấy một bầu trời đẹp , vui tuyệt vời .

Lạc Thủy Đỗ Quý Bái
Khai Phi Hạnh Nguyên dịch ra văn xuôi tiếng Việt

Chú thích của KPHN

(1) , (2) , (3) :
Em đẹp đến nỗi khi em đi qua vườn cỏ để đến bên anh , cỏ có thể cảm thấy vinh dự nhất rồi sảng khoái và trở nên tươi mát .
(4) :
Da em đẹp đến nỗi thần đẹp trai Apollon chắc sẽ đỏ mặt mà ôm em vì sợ da bớt tươi màu .
(5) :
Môi em đẹp đến nỗi ngư nữ có thể hổ thẹn .
(6) :
Em có vẻ đẹp của nàng Bạch Tuyết trong truyện thần tiên khi mới thức
dậy .

Bài La Joie Idyllique là loại thơ alexandrine , thơ Pháp thế kỷ thứ 12 , mỗi câu gồm 12 syllabes (12 vần) .
Bắt đầu bằng 2 câu có syllabe thứ 12 vần với nhau .Thí dụ :
J’ai voulu te revoir sans proclamatION .
Exalté de surprise , plein d’animatION ,
Hai câu kế tiếp có syllabe thứ 12 vần với nhau nhưng syllabe thứ 12 này không trùng với syllabe thứ 12 kế trước . Thí dụ :
Ton visage ovale serait radiANT
Comme la lune de nos rendez-vous d’antAN .
Và cứ thể tiếp tục cho đến hết bài thơ .

Cho đến bây giờ đây là bài thơ Pháp sáng tác duy nhất trong Email Friends Magazine .

Le Lac_Cái Hồ

Le Lac
Cái Hồ

Ainsi , toujours poussés vers de nouveaux rivages ,
Dans la nuit éternelle emportés sans retour ,
Ne pourrons-nous jamais sur l’océan des âges
Jeter l’ancre un seul jour ?
Như thế , luôn luôn bị xô đẩy tới những bến bờ mới ,
Trong đêm triền miên bị đem đi không trở lại ,
Chúng ta sẽ không bao giờ có thể trên biển đời
Thả neo chỉ một ngày hay sao ? (1)

Ô lac ! l’année à peine a fini sa carrière ,
Et près des flots chéris qu’elle devait revoir ,
Regarde ! je viens seul m’asseoir sur cette pierre
Où tu la vis s’asseoir !
Hồ ơi ! năm đã gần tàn ,
Và gần bên những sóng lớn thân yêu nàng đã phải thấy lại , (2)
Hãy nhìn đây ! ta đến một mình ngồi trên phiến đá này ,
Nơi mà ngươi đã thấy nàng ngồi xuống !

Tu mugissais ainsi sous ces roches profondes ,
Ainsi tu te brisais sur leurs flancs déchirés ,
Ainsi le vent jetait l’écume de tes ondes
Sur ses pieds adorés .
Ngươi đã rì rào như thế dưới những tảng đã sâu này ,
Ngươi đã tự vỡ ra như thế trên sườn lởm chởm của những tảng đã này ,
Gió đã quăng những bọt sóng của ngươi như thế
Lên đôi bàn chân rất được yêu thương của nàng .

Un soir , t’en souvient-il ? nous voguions en silence ;
On n’entendait au loin , sur l’onde et sous les cieux ,
Que le bruit des rameurs qui frappaient en cadence
Tes flots harmonieux .
Ngươi nhớ chăng một chiều chúng tôi đã lặng lẽ chèo thuyền ; (3)
Đằng xa trên sóng nước và dưới bầu trời , người ta chỉ nghe thấy
Tiếng mái chèo đập nhịp nhàng
Trên những làn sóng lớn hòa điệu của ngươi .

Tout à coup des accents inconnus à la terre
Du rivage charmé frappèrent les échos ;
Le flot fut attentif , et la voix qui m’est chère
Laissa tomber ces mots :
Bỗng nhiên , một giọng nói lạ tai đối với trái đất (4)
Đập vào những tiếng dội từ bờ hồ đầy thú vị ;
Sóng lớn lắng nghe , và giọng nói thân yêu đối với ta (5)
Đã thốt ra những lời này :

‘Ô temps ! suspends ton vol , et vous , heures propices !
Suspendez votre cours : laissez-nous savourer les rapides délices
Des plus beaux de nos jours !
“Thời gian ơi ! Hãy ngừng trôi , và các ngươi , những giờ thuận lợi !
Hãy ngừng lại :
Hãy để chúng tôi tận hưởng những lạc thú tuyệt vời chóng qua
Của những ngày đẹp nhất trong đời !

‘Assez de malheureux ici-bas vous implorent ,
Coulez , coulez pour eux ;
Prenez avec leurs jours les soins qui les dévorent ;
Oubliez les heureux .
“Khá nhiều những kẻ đau khổ ở trên đời này van xin các người ,
Các người hãy trôi đi , trôi đi cho họ ;
Các người hãy lấy đi những tháng ngày của họ cùng với những mối lo âu dày vò họ ;
Các người hãy quên đi những kẻ hạnh phúc .

‘Mais je demande en vain quelques moments encore ,
Le temps m’échappe et fuit ;
Je dis à cette nuit : Sois plus lente ; et l’aurore
Va dissiper la nuit .
“Nhưng ta tuyệt vọng đòi thêm vài khoảnh khắc ,
Thời gian vuột khỏi ta và lẩn trốn ;
Ta bảo đêm nay : Hãy chậm lại ; và rạng đông
Hãy đi làm tan bóng đêm .

‘Aimons donc , aimons donc ! de l’heure fugitive ,
Hâtons-nous , jouissons !
L’homme n’a point de port , le temps n’a point de rive ;
Il coule , et nous passons !’
“Vậy chúng ta hãy yêu thương , vậy chúng ta hãy yêu thương !
Chúng ta hãy mau lên , hãy hưởng những phút đang chạy trốn !
Con người chẳng có bến đỗ , thời gian chẳng có bến bờ ;
Thời gian trôi đi , và chúng ta qua mất !” (6)

Temps jaloux , se peut-il que ces moments d’ivresse
Où l’amour à longs flots nous verse le Bonheur ,
S’envolent loin de nous de la même vitesse
Que les jours de malheur ?
Này thời gian ganh tị , có thể nào không ? những lúc say đắm này (7),
Là lúc sóng tình rào rạt tưới đổ hạnh phúc lên chúng tôi ,
Bay xa khỏi chúng tôi
Lâu như những ngày đau khổ ?

Eh quoi ! n’en pourrons-nous fixer au moins la trace ?
Quoi ! passés pour jamais ! quoi ! tout entiers perdus !
Ce temps qui les donna , ce temps qui les efface ,
Ne nous les rendra plus !
Sao đây ! chúng tôi sẽ không thể tối thiểu giữ lại dấu vết của những lúc đó hay sao ?
Sao ! những lúc đó qua mất mãi mãi ! Sao ! Những gì là tất cả mất hết!
Thời gian này đã cho những lúc đó , thời gian này xóa mờ những lúc đó ,
Thời gian này sẽ không còn đem trở lại cho chúng tôi những lúc đó !

Éternité , néant , passé , sombres abîmes ,
Que faites-vous des jours que vous engloutissez ?
Parlez : nous rendrez-vous ces extases sublimes
Que vous nous ravissez ?
Hỡi vĩnh viễn , hư không , quá khứ , hỡi những tai họa đen tối ,
Các ngươi làm gì những ngày tháng mà các ngươi nuốt mất ?
Hãy nói đi : các ngươi có trả lại cho chúng tôi không ? Trả lại những cực lạc tuyệt vời này
Mà các ngươi làm cho chúng tôi rất thích thú ?
Ô lac ! rochers muets ! grottes ! forêt obscure !
Vous , que le temps épargne ou qu’il peut rajeunir ,
Gardez de cette nuit , gardez , belle nature ,
Au moins le souvenir !
Hỡi hồ ! Hỡi những tảng đã lớn câm nín ! Hỡi những động ! Hỡi rừng âm u !
Thời gian chừa các ngươi ra hoặc có thể làm các ngươi trẻ lại ,
Các ngươi là tạo vật tươi đẹp , hãy từ đêm nay giữ lấy , hãy tối thiểu giữ lấy
Kỷ niệm !

Qu’il soit dans ton repos , qu’il soit dans tes orages ,
Beau lac , et dans l’aspect de tes riants coteaux ,
Et dans ces noirs sapins , et dans ces rocs sauvages
Qui pendent sur tes eaux .
Hỡi hồ đẹp , ta muốn kỷ niệm ở trong sự yên tĩnh của ngươi , ở trong những cơn giông tố của ngươi ,
Ở trên dáng dấp những ngọn đồi tươi vui của ngươi ,
Ở trong những cây thông đen tối này , và ở trong những đá hoang vu này
Đang soi mình trên mặt nước của ngươi .

Qu’il soit dans le zéphyr qui frémit et qui passe ,
Dans les bruits de tes bords par tes bords répétés ,
Dans l’astre au front d’argent qui blanchit ta surface
De ses molles clartés .
Ta muốn kỷ niệm ở trong ngọn gió êm đềm hiu hiu lướt qua ,
Trong những tiếng động bên bờ của ngươi được lập lại bởi bến bờ ,
Trong tinh tú sáng như bạc , làm trắng mặt ngươi
Bằng những vầng sáng êm dịu .

Que le vent qui gémit , le roseau qui soupire ,
Que les parfums légers de ton air embaumé ,
Que tout ce qu’on entend , l’on voit ou l’on respire ,
Tout dise : Ils ont aimé !
Ta muốn gió đang gào , hàng sậy đang than thở .
Ta muốn những mùi thơm nhẹ nhàng trong không khí được ướp hương của ngươi ,
Ta muốn tất cả những gì người ta đang nghe thấy , người ta đang nhìn thấy, hoặc người ta đang thở , tất cả nói lên : đôi lứa đã yêu ! (8)

Alphonse de Lamartine
(1790-1869)
Phi Long Huỳnh Anh & Khai Phi Hạnh Nguyên
dịch ra văn xuôi tiếng Việt

Chú thích của PLHN & KPHN

(1) Bốn câu thơ đầu này tác giả hỏi cái hồ, “chúng ta” là tác giả và cái hồ.
Nước hồ “Luôn luôn bị xô đẩy tới những bến bờ mới, và trong đêm triền miên bị đem đi không trở lại,”
Cuộc đời tác giả cũng “Luôn luôn bị xô đẩy tới những bến bờ mới, và mối tình của tác giả cũng trong đêm triền miên bị đem đi không trở lại,”.
Vì thế, tác giả hỏi cái hồ rằng “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể thả neo trên biển đời chỉ một ngày hay sao ?”
(2) Người yêu của tác giả đã cùng với tác giả ngồi bên bờ hồ nên “Nàng đã phải thấy lại những làn sóng lớn thân yêu” (trên mặt hồ).
(3) “Chúng tôi”: tác giả và người yêu.
(4) “Một giọng nói lạ tai đối với trái đất”: giọng nói của người yêu của tác giá lạ tai đối với trái đất (vì trái đất không biết tiếng người).
(5) «Giọng nói thân yêu đối với tôi»: giọng nói của người yêu của tác giả.
(6) Tới đây chấm dứt lời nói của người yêu của tác giả.
(7) Bắt đầu từ câu này cho đến hết bài thơ là lời tác giả nói tiếp.
(8) “Đôi lứa” là tác giả và người yêu, “đã yêu” nghĩa là “bây giờ không còn yêu”.

Le Pont Mirabeau_Cầu Mirabeau

Le Pont Mirabeau
Cầu Mirabeau

Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Nước sông Seine chảy dưới cầu ,
Et nos amours , faut-il qu’il m’en souvienne ?
Tình em vương vấn theo màu thời gian .
La joie venait toujours après la peine .
Vui nhiều buồn vẫn chưa tan .
Vienne la nuit sonne l’heure .
Les jours s’en vont , je demeure .
Bên cầu anh đợi , ngày tàn theo chuông …

Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse .
Mong em trở lại bên sông .
Tay em sẽ để trong lòng tay anh .
Nhìn nhau , ánh mắt ân tình
Em trôi theo lớp sóng xanh lững lờ .
Vienne la nuit sonne l’heure .
Les jours s’en vont , je demeure .
Bên cầu anh vẫn bơ vơ
Theo hồi chuông đổ mơ hồ bóng đêm .

L’amour s’en va comme cette eau courante .
Tình trôi theo sóng êm đềm .
L’amour s’en va , comme la vie est lente !
Tình trôi đề tháng ngày thêm nặng nề .
Et comme l’Espérance est violente !
Lòng chưa tàn hết cơn mê
Vẫn mong em sẽ trở về bên anh .
Vienne la nuit sonne l’heure .
Les jours s’en vont , je demeure .
Chuông đâu lại đổ vô tình .
Anh còn thui thủi một mình trong đêm .

Passent les jours et passent les semaines .
Tháng ngày lại tháng ngày thêm .
Ni temps passé , ni les amours reviennent .
Tình còn đâu nữa bên thềm đợi trông .
Sous le pont Mirabeau coule la Seine .
Vienne la nuit sonne l’heure .
Les jours s’en vont , je demeure .
Vẫn dòng nước chảy ven sông .
Vẫn ngồi im bóng nghe chuông đổ hồi .
Người đi , đi mãi thật rồi
Bỏ ta ở lại phương trời bơ vơ …

Guillaume Apollinaire
(1880-1918)
Gaston Nguyễn Văn Phi Long & Khai Phi  dịch

Chú thích của KPHN về bài thơ Le Pont Mirabeau

Đoạn 1 :
Mối tình đã hết và niềm vui đã luôn đến sau nỗi đau khổ . Mặc dầu vậy , tác giả còn mang nhiều kỷ niệm bên dòng sông Seine còn chảy mãi dưới cầu Mirabeau . Tác giả ngồi bên cầu , chuông đổ hồi và màn đêm rơi xuống , cứ thế theo tháng ngày .
Đoạn 2 :
Tác giả mong nàng trở lại rồi hai người sẽ như xưa tay trong tay , nhìn nhau trìu mến trong khi sông nước lững lờ đem đi những ánh mắt yêu thương muôn thuở của nàng . Tác giả ngồi bên cầu , chuông đổ hồi và màn đêm rơi xuống , cứ thế theo tháng ngày .
Đoạn 3 :
Nhưng nàng không trở lại và tác giả thấy cuộc đời dài lê thê . Mặc dầu vậy, tác giả vẫn nhiều hy vọng . Tác giả ngồi bên cầu , chuông đổ hồi và màn đêm rơi xuống , cứ thế theo tháng ngày.
Đoạn 4 :
Nhưng hỡi ơi ! Chẳng có quá khứ cũng như chẳng có tình yêu nào trở lại . Dòng sông Seine vẫn tiếp tục chảy và tác giả vẫn ngồi bên cầu trong khi chuông đổ hồi báo hiệu màn đêm rơi xuống .

Cầu Mirabeau bắc ngang sông Seine từ quận (arrondissement) 15 sang quận 16 của Paris .

Honore’ Gabriel Riqueti Mirabeau (1749-1791) , tức là bá tước Mirabeau , chính trị gia Pháp , sinh tại lâu đài Bignon , con của Victor Riqueti Mirabeau, tức là hầu tước Mirabeau . Mặc dầu là quý tộc , bá tước Mirabeau được bầu làm đại diện cho phe Thứ Dân Aix (Tiers E’tat d’Aix) năm 1789 . Là nhà hùng biện uy tín, Mirabeau muốn làm người cứu vãn nền quân chủ lập hiến (monarchie constitutionnelle) nhưng bị hoàng hậu ghét nên vua không nghe theo .

 

Le Pont Mirbeau
Cầu Mirabeau

Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours , faut-il qu’il m’en souvienne ?
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy lững lờ
Và tình đôi ta nữa .
Nên hoài niệm xa xưa ?
La joie venait toujours après la peine .
Nguồn vui thường nối tiếp nỗi phiền muộn bơ phờ .
Vienne la nuit sonne l’heure .
Les jours s’en vont , je demeure .
Chờ màn đêm buông xuống boong boong chuông điểm giờ .
Bao ngày trôi trôi mãi ta đứng lại trơ trơ .

Les mains dans les mains restons face à face
Mong tay trong tay khắng khít , mặt đối mặt người thơ
Tandis que sous le pont de nos bras passe
Dưới cầu , vòng tay nhỏ , có sóng nước lững lờ .
Des éternels regards l’onde si lasse .
Đưa tia nhìn vĩnh cửu xuôi xuôi xa bến bờ …
Vienne la nuit sonne l’heure .
Les jours s’en vont , je demeure .
Chờ màn đêm buông xuống boong boong chuông điểm giờ .
Bao ngày trôi trôi mãi ta còn đứng trơ trơ .

L’amour s’en va comme cette eau courante .
L’amour s’en va , comme la vie est lente !
Tình yêu như nước lũ .
Tình yêu nước qua bờ .
Đời sao dài thậm thượt !
Et comme l’Espérance est violente !
Sao cuồng bạo mộng mơ !
Vienne la nuit sonne l’heure .
Les jours s’en vont , je demeure .
Chờ màn đêm buông xuống boong boong chuông điểm giờ .
Bao ngày trôi trôi mãi ta đứng lại trơ trơ .

Passent les jours et passent les semaines .
Ngày tuần qua lững lờ .
Ni temps passé , ni les amours reviennent .
Cả thời gian xa xưa ,
Cả những tình nghĩa cũ có trở lại gao giờ ?
Sous le pont Mirabeau coule la Seine .
Vienne la nuit sonne l’heure .
Les jours s’en vont , je demeure .
Dưới cầu Mirabeau sông Seine trôi lững lờ .
Chờ màn đem buông xuống boong boong chuông điểm giờ .
Bao ngày trôi trôi mãi ta đứng lại trơ trơ .

Guillaume Apollinaire
(1880-1918)
Lạc Thủy Đỗ Quý Bái lược dịch

Le Vase Brise’_Bình Hoa Rạn Vỡ

                        La verveine

Le Vase Brise’
Bình Hoa Rạn Vỡ

Le vase où meurt cette verveine
Hoa verveine* chết trong bình
D’un coup d’éventail fut félé .
Quạt ai chạm phải vô tình một hôm .
Le coup dut l’effleurer à peine ,
Chạm nhẹ , nhẹ chẳng gì hơn
Aucun bruit ne l’a révélé .
Nên không tiếng động , nứt còn tưởng nguyên .

Mais la lége`re meurtrissure
Vết bầm dập chỉ bị nhẹ
Mordant le cristal chaque jour,
Cắn chất pha lê cứ thế mỗi ngày
D’une marche invisible et sure
Kín thầm mà lại chắc thay
En a fait lentement le tour.
Dần dần rạn nứt thành ngay một vòng .

Son eau fraiche a fui goutte à goutte ,
Nước tươi mát ngày nhỏ giọt ,
Le suc des fleurs s’est épuisé .
Nhựa hoa khô vì mãi bớt trong cành
Personne encore ne s’en doute .
Ai mà nghĩ đến sự tình .
N’y touchez pas , il est brisé .
Xin đừng đụng tới chiếc bình sắp tan .

Souvent aussi la main qu’on aime
Cũng lắm khi bàn tay yêu
Effleurant le coeur le meurtrit .
Chạm ai , chỉ nhẹ không nhiều , trái tim .
Puis le coeur se fend de lui-même ,
Tim đau cứ thế nứt mềm ,
La fleur de son amour périt .
Hoa tình trong chết còn tìm nơi đâu .

Toujours intact aux yeux du monde ,
Tim luôn nguyên trước mắt người ,
Il sent croi^tre et pleurer tout bas
Sa blessure fine et profonde .
Il est brisé , n’y touchez pas .
Nghe vết thương nhỏ bị vùi kín thâm
Tháng năm cứ lớn khóc thầm .
Hãy cho tim vỡ được nằm nghỉ yên .

Sully Prudhomme (1839-1907)
Khai Phi Hạnh Nguyên dịch

* Một loại hoa gốc Mỹ Châu , trồng làm cảnh .

Chú thích của KPHN về bài thơ Le Vase Brise’

Chiếc quạt tay của ai đã chạm vào bình pha lê đựng hoa verveine , một loại hoa trồng làm cảnh gốc Mỹ Châu khiến cho hoa bị chết .
Quạt chạm rất nhẹ không tiếng động nhưng bình đã bị rạn không ai hay .

Vết rạn nhẹ thôi nhưng đã âm thầm làm nứt một vòng pha lê không ai biết.
Không ai thấy nước tươi mát trong bình mỗi ngày nhỏ giọt theo vòng nứt nên nhựa hoa bị khô cằn . Xin đừng đụng tới chiếc bình sắp vỡ này .

Lắm khi những kẻ yêu nhau làm một điều gì đó .
Và như vậy giống như bàn tay của họ , bàn tay được yêu thương , đã quệt nhẹ vào trái tim người yêu khiến tim bị thương .
Trái tim nứt và đóa hoa tình yêu bên trong bị chết giống như hoa verveine.

Vẫn luôn bình thường trước mắt mọi người , trái tim cảm thấy rằng vết thương nhỏ trong sâu của nó lớn dần và khóc thầm .
Hãy để cho trái tim vỡ này được nghỉ yên .

 

Le Vase Brise’
Bình Hoa Rạn Nứt

Le vase où meurt cette verveine
Bình hoa cắm mã tiên héo úa
D’un coup d’éventail fut félé .
Nhài quạt ai đã lỡ chạm vào .
Le coup dut l’effleurer à peine ,
Đụng sơ cứ tưởng không sao .
Aucun bruit ne l’a révélé .
Chẳng ai nghe tiếng động nào vọng ra .

Mais la lége`re meurtrissure
Vết thương ngầm tưởng là rất nhẹ .
Mordant le cristal chaque jour ,
Chất pha lê cắn xé mỗi ngày
D’une marche invisible et sure
Vô hình mà chắc chắn thay .
En a fait lentement le tour .
Bình hoa vết nứt tròn xoay đủ vòng .

Son eau fraiche a fui goutte à goutte ,
Nước tươi mát rịn xong mỗi giọt ,
Le suc des fleurs s’est épuisé .
Nhựa nuôi hoa trong đọt mỗi khô ,
Personne encore ne s’en doute .
Nào ai đã có lòng ngờ .
N’y touchez pas , il est brisé .
Bình bông đã rạn , chạm vô xin đừng .

Souvent aussi la main qu’on aime
Đôi khi tay ta từng yêu mến
Effleurant le coeur le meurtrit .
Chạm sơ mà chết điếng tim ta !
Puis le coeur se fend de lui-même ,
Con tim nứt rạn mãi ra ,
La fleur de son amour périt .
Hoa tình ủ rũ phôi pha héo tàn .

Toujours intact aux yeux du monde ,
Nguyên si trước mắt phàm nhân thế ,
Il sent croi^tre et pleurer tout bas
Vết thương sâu vi tế nẩy trồi .
Sa blessure fine et profonde .
Tỉ tê chỉ khóc thầm thôi
Il est brisé , n’y touchez pas .
Con tim rạn nứt chạm chơi xin đừng .

Sully Prudhomme (1839-1907)
Lạc Thủy Đỗ Quý Bái lược dịch

Leona Helmsley

Leona Helmsley left $12m to her pet dog , Trouble
Leona Helmsley đã để lại 12 triệu $US cho con chó cưng (chó được nuông chiều) của bà tên là Trouble (trouble : sự rắc rối , kẻ gây rắc rối)

Leona Helmsley
Leona Helmsley

Người đáng chán làm ta thấy chán ,
People made me tired of them .
Tám tỷ đô cho bạn chó thôi . (*)
I donated my 8-billion dollars to dogs that were friends until my end .
Mấy ai hiểu được lòng người ,
Who could understand Man’s heart ?
Mấy ai có được những lời tri âm . (**)
Who could say and get words of a true friend ?

Khai Phi Hạnh Nguyên

(*) Đô : đô la Mỹ .
(**) Có được : được nghe nói với mình hoặc thốt lên được .

 

US tycoon’s ‘$8bn to dog welfare’ (BBC News)
Tỷ phú Mỹ để lại “8 tỷ $US cho an sinh của chó” (Tin của BBC)

The late US real estate tycoon Leona Helmsley reportedly wanted her estimated $8bn fortune spent on dogs . Nữ tỷ phú địa ốc (làm nghề bán nhà đất) Mỹ quá cố Leona Helmsley , theo tin tức , đã muốn tài sản tính ra 8 tỷ $US của bà được tiêu dùng cho chó .
She left instructions that her estate go towards dog welfare , according to the New York Times , and animal welfare groups are elated . Theo báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo) , bà đã để lại chỉ thị rằng tài sản của bà phải được để cho sự an sinh (sự sống bình an) của chó , và những nhóm người hoạt động cho sự an sinh của thú vật cảm thấy khoái trí .
The newspaper said that while her wishes were not part of her will courts do consider expressions of intent . Tờ báo nói rằng trong khi những mong muốn của bà đã không được viết vào tờ di chúc , các toà án nhất định xem đó như là những phát biểu về ý định của bà .
Mrs Helmsley , who died last August aged 87 , was dubbed the “Queen of Mean” during a trial in 1989 for tax evasion . Bà Helmsley , từ trần vào tháng 8 vừa qua thọ 87 tuổi , đã được tặng biệt danh là “Nữ Hoàng Nhỏ Mọn” trong một vụ ra tòa năm 1989 vì trốn thuế . She left a $12m (£6m) inheritance to her pet dog , Trouble , explicitly leaving out two of her grandchildren . Bà đã để tiền thừa kế 12 triệu $US cho con chó cưng của bà tên là Trouble (Rắc Rối) , rõ ràng là cho ra rìa hai trong những người cháu gọi bà bằng bà . But in April a Manhattan judge reduced the trust fund for the nine-year-old Maltese to $2m and the grandchildren received $6m each . Nhưng vào tháng 4 , một chánh án ở Manhattan đã giảm số tiền cho Chú Hiệp Sĩ chín tuổi xứ Malta xuống còn 2 triệu $US và xử hai người cháu mỗi người được 6 triệu $US (chú thích của KPHN : vì người ta gọi Bà Helmsley là “Nữ Hoàng Nhỏ Mọn”, tác giả bài báo này theo đó gọi con chó cưng Trouble của bà là Chú Hiệp Sĩ chín tuổi xứ Malta – Knight of Malta , Chevalier de Malte , một chức tước do vua Anh phong – KPHN’s note : the author of this article called the dog Trouble as “the nine-year-old Maltese” because Mrs. Helmsley had been called “Queen of Mean”) .
Charities said the money could be used to rescue dogs from disaster zones and to tackle dog fighting , rabies in China and India as well as the canine over-population problem . Những tổ chức từ thiện nói rằng tiền của bà Helmsley có thể dùng để cứu những con chó khỏi những vùng bị tai họa và để đối phó với nạn chơi “chọi chó” [cho chó cắn nhau để xem] , đối phó với nạn chó dại ở Trung Quốc và Ấn Độ cũng như đối phó với vấn đề chó sinh sản quá nhiều . Wayne Pacelle , president of the Humane Society , said US charitable foundations , like that established by Mrs Helmsley , were legally required to spend 5% of their assets per year . Wayne Pacelle , chủ tịch Hội Nhân Đạo , nói rằng những cơ sở từ thiện Mỹ , như là cơ sở từ thiện do Bà Helmsley thành lập , trên phương diện luật pháp , đã bị buộc phải tiêu dùng mỗi năm 5% số tiền của mình . On an $8bn estate , that would be $400m – three times the Humane Society’s annual budget, he told AP news agency . Ông nói với hãng thông tin AP – Associated Press (Thông Tấn Xã) rằng 5% của 8 tỷ $US (tài sản của Bà Helmsley) là 400 triệu $US ; 400 triệu $US to gấp ba lần ngân khoản hàng năm của Hội Nhân Đạo.

Bản dịch sang Việt Văn và chú thích của Khai Phi Hạnh Nguyên

Nét Đông_Winter Traits

Nét Đông
Winter Traits

Đông ơi đừng để ta buồn .
Oh Winter ! Don’t let me down .
Tuyết rơi xuống mãi đâu còn lá xanh .
While snow keeps falling , where can I find green leaves now ?
Chim ơi vắng tiếng trên cành
Oh birds ! Without your twittering on the trees ,
Như đời không nhạc thiếu tình cung tơ . (1)
Days are like no music and how boring life is .

Hồng Loan
Khai Phi translates into English

Nét Đông : nét của mùa Đông – winter traits – trên đất Mỹ .
(1) Cung tơ : cung đàn .

Những Bông Hồng_Roses

Những Bông Hồng
Roses

Ai đã cho tôi những đóa hồng
Somebody who gave me roses to share (1)
Để hồn tôi dậy nỗi bâng khuâng .
Stirred up my heart with nice feelings .
Phút giây mơ tưởng thời hoa bướm ,
In a moment , I thought my youth was coming
Mái tóc phong sương chạnh cõi lòng .
Back with a gloomy light on my graying hair

Khai Phi Hạnh Nguyên

(1) Roses to share = roses in an e-mail attachment .

Cám ơn Cecilia Khưu Thanh Vân đã gửi e-mail .

Oceano Nox_Đêm Đại Dương

Oceano Nox
Đêm Đại Dương

Oh ! combien de marins , combien de capitaines
Ôi ! biết bao nhiêu hải hành viên , biết bao nhiêu thuyền trưởng
Qui sont partis joyeux pour des courses lointaines ,
Đã vui vẻ ra đi cho những cuộc hành trình xa xôi ,
Dans ce morne horizon se sont évanouis !
Đã biến mất trong chân trời u buồn này !
Combien ont disparu , dure et triste fortune !
Biết bao nhiêu người đã mất hút , số phận cực khổ và buồn thảm !
Dans une mer sans fond , par une nuit sans lune ,
Trong biển sâu không đáy , vào một đêm không trăng ,
Sous l’aveugle océan à jamais enfouis !
Mãi mãi bị chôn dấu dưới đại dương mù lòa !

Combien de patrons morts avec leurs équipages !
Biết bao nhiêu chủ tàu bị chết cùng với hải hành đoàn !
L’ouragan de leur vie a pris toutes les pages
Cơn bão táp mãnh liệt của cuộc đời họ đã lấy đi tất cả những trang đời
Et d’un souffle il a tout dispersé sur les flots !
Và bằng một luồng gió thổi , đã rải tung tất cả lên những sóng lớn !
Nul ne saura leur fin dans l’abîme plongée .
Không ai sẽ biết được đoạn kết của họ đã bị lao vào tai họa .
Chaque vague en passant d’un butin s’est chargée ;
Mỗi một đợt sóng trôi qua đã chiếm lấy một chiến lợi phẩm ;
L’une a saisi l’esquif , l’autre les matelots !
Đợt sóng này đã lấy một vật nhỏ trong tàu , đợt sóng kia những thủy thủ !

Nul ne sait votre sort , pauvres têtes perdues !
Không ai biết số phận các người , hỡi những kẻ thiệt mạng đáng thương !
Vous roulez à travers les sombres étendues ,
Các người lăn qua những khoảng mờ tối ,
Heurtant de vos fronts morts des écueils inconnus .
Trán vô hồn đụng phải những tảng đá không ai biết , ngang mặt nước .
Oh ! que de vieux parents , qui n’avaient plus qu’un rêve ,
Ôi ! biết bao nhiêu cha mẹ già , những người đã chỉ có một giấc mơ ,
Sont morts en attendant tous les jours sur la grève
Đã chết đi trong thời gian ngày ngày đợi chờ trên bãi biển sỏi cát
Ceux qui ne sont pas revenus !
Những kẻ đã không bao giờ trở lại !

On s’entretient de vous parfois dans les veillées .
Đôi khi người ta nói với nhau về các người trong những buổi thức đêm .
Maint joyeux cercle , assis sur des ancres rouillées ,
Đám đông người ngồi thành vòng tròn vui vẻ trên những chiếc neo rỉ sét ,
Mêle encor quelque temps vos noms d’ombre couverts
Thỉnh thoảng còn nhắc tên các người , những cái tên đã bị phủ bóng tối ,
Aux rires , aux refrains , aux récits d’aventures ,
Trong những trận cười , những câu chuyện kể đi kể lại , những truyện phiêu lưu ,
Aux baisers qu’on dérobe à vos belles futures ,
Những cái hôn kín đáo cho tương lai tốt đẹp của các người ,
Tandis que vous dormez dans les goémons verts !
Trong khi các người an nghỉ vĩnh viễn giữa những đám rong xanh !

On demande : – Où sont-ils ? sont-ils rois dans quelque île ?
Người ta hỏi : – Họ ở đâu ? họ có làm vua trên một hòn đảo nào đó không ?
Nous ont-ils délaissés pour un bord plus fertile ? –
Họ có bỏ chúng ta để đến một bến bờ phì nhiêu hơn không ? –
Puis votre souvenir même est enseveli .
Rồi thì ngay cả kỷ niệm về các người cũng bị chôn vùi .
Le corps se perd dans l’eau , le nom dans la mémoire .
Thân xác các người mất đi trong nước , tên các người mất đi trong ký ức .
Le temps , qui sur toute ombre en verse une plus noire ,
Thời gian đổ lên bất cứ một bóng tối nào một bóng tối đen hơn ,
Sur le sombre océan jette le sombre oubli .
Ném xuống đại dương mờ tối sự quên lãng mờ tối .

Bientôt des yeux de tous votre ombre est disparue .
Chẳng bao lâu , hình bóng của các người bị biến mất khỏi đôi mắt mọi người .
L’un n’a-t-il pas sa barque et l’autre sa charrue ?
Người này không có một con tàu nhỏ của mình , người kia một cái cầy hay sao ?
Seules , durant ces nuits où l’orage est vainqueur ,
Một mình , suốt những đêm mưa to gió lớn hoành hành ,
Vos veuves aux fronts blancs , lasses de vous attendre ,
Nhưng bà góa trán phủ tóc bạc của các người , mệt mỏi vì mong đợi các người ,
Parlent encor de vous en remuant la cendre
Hãy còn nói đến các người khi khơi đống tro tàn
De leur foyer et de leur coeur !
Trong lò sưởi và trong lòng mình !

Et quand la tombe enfin a fermé leur paupière ,
Và khi cái huyệt vào lúc cuối đã đóng lại đôi mi các bà góa ,
Rien ne sait plus vos noms , pas même une humble pierre
Tên các người chẳng còn được cái gì biết đến , ngay cả một hòn đá tầm thường
Dans l’étroit cimetière où l’écho nous répond ,
Trong nghĩa trang chật hẹp có tiếng dội trả lời chúng tôi ,
Pas même un saule vert qui s’effeuille à l’automne ,
Ngay cả một cây liễu xanh trụi lá vào mùa thu ,
Pas même la chanson naïve et monotone
Ngay cả bài hát chất phác và đều đều
Que chante un mendiant à l’angle d’un vieux pont !
Một người ăn xin hát trong góc một chiếc cầu cũ !

Où sont-ils , les marins sombrés dans les nuits noires ?
Họ ở đâu , những hải hành viên đã chìm xuống nước trong những đêm tối đen ?
O flots , que vous savez de lugubres histoires !
Hỡi sóng cả , các ngươi biết được biết bao nhiêu là truyện tang tóc !
Flots profonds redoutés des mères à genoux !
Các ngươi là sóng sâu mà những bà mẹ sợ hãi quỳ gối xuống !
Vous vous les racontez en montant les marées ,
Các ngươi kể cho nhau những truyện đó khi các ngươi đi lên những thủy triều
Et c’est ce qui vous fait ces voix désespérées
Đã tạo thành cho các ngươi những tiếng nói tuyệt vọng này
Que vous avez le soir quand vous venez vers nous !
Mà các ngươi có được vào buổi chiều khi trôi đến chúng tôi !

Victor Hugo

Khai Phi Hạnh Nguyên dịch sang văn xuôi tiếng Việt
January 19 , 2009

Có ba tác phẩm của văn thi hào Pháp Victor Hugo (1802-1885) các học sinh trung học Pháp và trung học Việt một thời đều đã biết hoặc ưa thích . Đó là tiểu thuyết Les Mise’rables (Những Kẻ Khốn Cùng) , tiểu thuyết lịch sử (roman historique) Notre Dame de Paris (Nhà Thờ Đức Bà Paris) và bài thơ Oceano Nox (Đêm Đại Dương) .
Oceano Nox gồm tám đoạn , mỗi đoạn sáu câu thơ , viết về những truyện xảy ra ban đêm trên đại dương .

Oceano Nox do Nguyễn Công Nhàn sưu tầm .

Ai ơi , chớp bể mưa nguồn ,
Gió to sóng lớn , làm buồn tim ta .
Khai Phi Hạnh Nguyên cảm đề Oceano Nox
May 16, 2013