Tên thật: Trần Thị Hồng Loan. Pháp danh: Diệu Quỳnh. Thích thơ, nhạc : thi sĩ tài tử, dịch bài hát ngoại quốc chung với bạn. Thích gia chính, trồng hoa quả. Tình nguyện hoạt động từ thiện. Cựu nữ sinh Trưng Vương (1955-1960) tại Sài Gòn, Việt Nam. Định cư tại San Diego, California, USA.
Maiden name: Tran Thi Hong Loan. Buddist name: Dieu Quynh. Loves poetry and music : amateur poet, co-translator of foreign songs. Loves cooking, gardening. Volunteer in charity activities. Former student of Trung Vuong High School (1955-1960) in Saigon, Vietnam. Settled in San Diego, California, USA.
The duet “Au Fond Du Temple Saint” is one of the most loved duets in all operatic literature. It is from the 1863 opera Les Pêcheurs De Perles (The Pearl Fishers) by French composer Georges Bizet (1838-1875). Bizet is perhaps best known for another opera, the masterpiece Carmen. Les Pêcheurs De Perleswas written earlier, and was not well received by critics at the time. However, the opera was premiered before Bizet’s 25th birthday, and showed a remarkable ability for somebody so young.
Song ca “Au Fond Du Temple Saint” (“Tại Cuối Đền Thờ Thánh”) là một trong những song ca được yêu chuộng nhất trong tất cả kịch bản đại hý viện. Song ca này bắt nguồn từ kịch bản đại hý viện Les Pêcheurs De Perles (Những Người Bắt Ngọc Trai) năm 1863 của tác giả người Pháp Georges Bizet (1838-1875). Bizet có lẽ nổi tiếng nhất trong một kịch bản đại hý viện khác, đó là kiệt tác Carmen. Les Pêcheurs De Perles đã được viết trước và đã không được khá tiếp nhận bởi những nhà phê bình thời đó. Tuy nhiên, kịch bản này được trình diễn lần đầu tiên trước sinh nhật thứ 25 của Bizet, và đã cho thấy khả năng đáng chú ý của một người rất trẻ tuổi.
After Bizet’s death, Les PêcheursDe Perles enjoyed a revival, and modern critics have looked upon the opera much more favorably than Bizet’s contemporaries. Although the entire opera is not performed as often as Carmen, this famous tenor-baritone duet has become a classic in its own right. It is often performed separately from the whole opera as a feature in concert or recital.
Sau khi Bizet qua đời, Les Pêcheurs De Perles đã được hồi sinh thưởng thức, và những nhà phê bình tân tiến đã có một cái nhìn về tác phẩm đại hý viện này một cách yêu thích hơn các nhà phê bình cùng thời với Bizet. Mặc dầu toàn thể kịch bản không được trình diễn nhiều lần như Carmen, song ca nổi tiếng giọng tenor-baritone (cao-trung) này đã trở thành một sản phẩm nổi tiếng có giá trị lớn trong thẩm quyền riêng của nó. Song ca này thường được trình diễn tách ra khỏi nguyên vở kịch đại hí viện như là một đặc biệt của đại hòa nhạc hoặc một nhóm hòa nhạc.
“Au Fond Du Temple Saint” focuses on the relationship between Nadir (tenor) and Zurga (baritone), who had both fallen in love for the same woman, Leila (soprano). As they sing the duet, they are reuniting after a time apart. They sing of the time they were in conflict over Leila and recall their oath to renounce their love for her and pledge undying friendship to each other instead.
“Au Fond Du Temple Saint” tập trung diễn tả mối quan hệ giữa Nadir (tenor_giọng nam cao) và Zurga (baritone_giọng nam trung), hai người đã một thời cùng yêu một người đàn bà là Leila (soprano_giọng nữ cao). Trong khi hai người hát bản song ca, họ đoàn kết lại sau một thời gian chia lìa. Họ hát về một thời xung đột nhau vì Leila và hồi tưởng lại lời hứa chối bỏ tình yêu với nàng cùng tuyên bố nguyện làm bạn suốt đời.
As is often the case in opera, their friendship falls apart shortly thereafter when Nadir sees Leila and immediately rushes into her arms again. Zurga finds out and orders them both to be killed.
Như trong vở kịch, tình bạn của họ sau đó nhiều lần tan vỡ khi Nadir gặp lại Leila, liền chạy tới sa vào đôi vòng tay của nàng. Zurga thấy được và hạ lệnh giết đôi tình nhân.
However, this duet expresses the intent to remain lifelong friends, foreshadowing a resolution that saves Nadir in the end. Zurga discovers later that Leila had saved his life when she was just a young child. Seeing her as that child instead of a romantic partiner, his anger subsides, and he sets Leila and his friend Nadir free to be together at the end of the opera.
Tuy nhiên, song ca này diễn tả ý muốn giữ lại tình bạn suốt đời, cho thấy dấu hiệu một giải quyết cứu sống Nadir vào lúc chót. Zurga khám phá ra rằng Leila đã cứu sống mình khi nàng chỉ mới là một trẻ thơ. Thấy nàng như đứa trẻ thơ thay vì một tình nhân thơ mộng, Zurga nguôi giận, tha cho Nadir và Leila được tự do yêu nhau, sự việc này xảy ra vào lúc kết của vở kịch.
The recording of Jussi Björling and Robert Merrill is considered one of the best renditions of this incredible duet. Feel free to listen and enjoy.
Bản ghi âm song ca Jussi Björling and Robert Merrill này được xem như là một trong những trình diễn hay nhất của khúc nhạc song ca “Au Fond Du Temple Saint” hay ngoài sức tưởng tượng. Hãy tự do nghe và thưởng thức.
Matthew Smith Khai Phi dịch sang Việt Văn_Translation into Vietnamese by Khai Phi
Au Fond Du Temple Saint Tại Cuối Đền Thờ Thánh
At The Back Of The Holy Temple
Nadir (Jussi Björling’s singing_ do Jussi Björling hát): Au fond du temple saint Tại cuối đền thờ thánh
At the back of the holy temple Paré de fleurs et d’or, Được trang hoàng bằng hoa và vàng,
decorated with flowers and gold, Une femme apparaît ! (*) Một người đàn bà xuất hiện!
A woman appears ! Zurga (Robert Merrill’s_singing_do Robert Merrill hát): Une femme apparaît ! Một người đàn bà xuất hiện!
A woman appears ! Nadir (Jussi Björling_right_ bên phải trong ảnh) Je crois la voir encore ! Tôi tin tôi vẫn còn thấy nàng
I believe I still see her ! Zurga (Robert Merrill_left_ bên trái trong ảnh) Je crois la voir encore ! Tôi tin tôi vẫn còn thấy nàng !
I believe I still see her !
Nadir La foule prosternée Đám đông đã quỳ xuống
The prostrate crowd La regarde, étonnée, Nhìn nàng, sửng sốt,
Looks at her amazed Et murmure tout bas Và thầm thì
And murmurs under its breath Voyez, c’est la déesse Hãy xem kìa, vị nữ thần
Look, this is the goddess Qui dans l’ombre se dresse Đang đứng lên trong bóng tối
Looming up in the shadow Et vers nous tend les bras ! Và hướng thẳng đôi cánh tay về phía chúng ta !
And holding out her arms to us ! Zurga Son voile se soulève ! Chiếc mạng che mặt của nàng từ từ vén lên !
Her veil parts slightly ! Ô vision ! ô rêve ! Ôi đẹp biết bao ! Ôi đẹp như trong mộng !
What a vision ! What a dream ! La foule est à genoux ! Đám đông quỳ xuống
The crowd is kneeling ! Both Cả hai Nadir và Jurga Oui, c’est elle ! Vâng, đó là nàng !
Yes, it is she ! C’est la déesse Chính là vị nữ thần
It is the goddess Plus charmante et plus belle ! Duyên dáng thêm và đẹp thêm lên !
More charming and more beautiful. Oui, c’est elle ! Vâng, đó là nàng !
Yes, it is she ! C’est la déesse Chính là vị nữ thần
It is the goddess Qui descend parmi nous ! Đang đi xuống giữa chúng ta !
Who has come down among us ! Son voile se soulève Chiếc mạng che mặt của nàng từ từ vén lên !
Her veil has parted Et la foule est à genoux ! Và đám đông quỳ xuống !
And the crowd is kneeling !
Nadir Mais à travers la foule, Nhưng xuyên qua đám đông,
But through the crowd, Elle s’ouvre un passage ! Nàng đang mở một đường đi !
She makes her way ! Zurga Son long voile déjà Chiếc mạng dài của nàng đã
Already her long veil Nous cache son visage ! Che dấu chúng ta khuôn mặt của nàng !
Hides her face from us ! Nadir Mon regard, hélas ! Tầm mắt của tôi, hỡi ơi !
My eyes, alas! La cherche en vain ! Tìm nàng một cách vô vọng !
Seek her in vain ! Both Cả hai Nadir và Jurga Oui, c’est elle ! Vâng, đó là nàng !
Yes, it is she, C’est la déesse ! Chính là vị nữ thần
It is the goddess En ce jour qui vient nous unir. Hôm nay đến đoàn kết hai chúng ta.
Who comes to unite us this day. Et fidèle à ma promesse, Và tôi xin cam kết giữ lời hứa,
And, faithful to my promise, Comme un frère je veux te chérir ! Nguyện quý mến bạn như anh em !
I wish to cherish you like a brother! C’est elle, Vâng, đó là nàng !
It is she, C’est la déesse Chính là vị nữ thần
It is the goddess, Qui vient en ce jour nous unir ! Hôm nay đến đoàn kết hai chúng ta.
Who comes to unite us this day! Oui, partageons le même sort, Vâng, chúng ta hãy chia xẻ cùng một số mệnh,
Yes, let us share the same fate, Soyons unis jusqu’à la mort ! Hãy đoàn kết với nhau cho đến cuối cuộc đời !
Let us be united until death !
(*) Leila
Khai Phi dịch sang Việt Văn
Translation into Vietnamese by Khai Phi
The thrushes sing as the sun is going,
And the finches whistle in ones and pairs,
And as it gets dark loud nightingales
In bushes
Pipe as they can when April wears,
As if all Time were theirs.
These are brand new birds of twelvemonths’ growing,
Which a year ago, or less than twain,
No finches were, nor nightingales,
Nor thrushes,
But only particles of grain,
And earth, and air, and rain.