Khai Phi's Website

Biết Người Biết Mình_Knowing The Enemy & Oneself

Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng.
Tôn Tử Binh Pháp (512 BC)
Biết người biết mình trăm trận trăm thắng.
Phương Pháp Quân Sự Tôn Tử (512 năm trước Tây Lịch)
Knowing the enemy and oneself is winning all one hundred battles one fights.
Military Methods by Sun Zi (512 BC)

Translations into Vietnamese and English by Khai Phi

To Know About Oneself & Others_ Để Biết Về Mình & Người Khác

It is really hard to know about oneself and others.
A man knows about himself and others when he loses power, money, and potency.
A woman knows about herself and others when she loses power, money, and beauty.

Thật khó mà biết về mình và người khác.
Đàn ông biết về mình và người khác khi mất quyền lực, tiền của,
và khả năng làm tình.
Đàn bà biết về mình và người khác khi mất quyền lực, tiền của, và nhan sắc.

Khai Phi

Khai Phi

Phí Mạnh Khải (Khai Manh Phi)
Sinh năm 1940, tại Hà Nội, Việt Nam.
Sáng tác thơ.

Viết văn.
Sáng tác nhạc (Trở Về Hà Nội_Come Back to Hanoi; Đệ Nhất Giai Nhân_Miss Universe; Thời Gian_Time; Sài Gòn Ơi!_Oh Saigon!, etc)
Bác Sĩ Y Khoa Đại Học Saigon, Việt Nam.
Bác Sĩ Giải Phẫu Tổng Quát tốt nghiệp tại Tổng Y Viện Cộng Hòa Sài Gòn, Cục Quân Y, Việt Nam Cộng Hòa.
Bác Si Giải Phẫu Tổng Quát Bệnh Viện 2 Dã Chiến Kontum và Bệnh Viện Kontum, Việt Nam.
Bác Sĩ Trưởng Giải Phẫu Tổng Quát Bệnh Viện 2 Dã Chiến.
Quyền Giám Đốc Bệnh Viện Kontum và Bệnh Viện 2 Dã Chiến (1973-1975).
Anh Dũng Bội Tinh Với Ngôi Sao Bạc (1969).

Anh Dũng Bội Tinh Với Ngôi Sao Đồng (1973).
Nhân Dũng Bội Tinh (1974).
Anh Dũng Bội Tinh Với Ngôi Sao Bạc (1974).
Khai Phi, MD chứng nhận bởi Uỷ Ban Giáo Dục Mỹ về Bác Sĩ Y Khoa Ngoại Quốc.

Vợ: Hạnh Nguyên (Nguyễn Thị Hạnh) từ 1969 đến nay.
Con: Thủy (gái), Nhật (trai), Anh (gái), và Minh (trai).
Định cư tại Mỹ năm 1980.

Khai Manh Phi
Born on October 20, 1940, in Hanoi, Vietnam.
Poet.
Writer.
Song writer (Come Back to Hanoi_Trở Về Hà Nội; Miss Universe_Đệ Nhất Giai Nhân; Time_Thời Gian; Oh Saigon!_Sài Gòn Ơi!, etc)
National Medical Doctor of Faculty of Medicine of Saigon, Vietnam.
General Surgeon certified by Republic General Hospital of Saigon, Military Medical Corps, Republic of Vietnam.
General Surgeon of both Second Field Hospital and Kontum Hospital.
Chief, General Surgery, Second Field Hospital in Kontum, Vietnam.
Acting Director of both Second Field Hospital and Kontum Hospital (1973-1975).
Bravery Act Silver Star Honor Medal (1969).
Bravery Act Bronze Star Honor Medal (1973).
Human Life Saving Bravery Act Honor Medal (1974).
Bravery Act Silver Star Honor Medal (1974).
Khai Manh Phi, MD certified by ECFMG (Educational Commission for Foreign Medical Graduates).

Wife: Hanh Nguyen (Hanh Thi Nguyen) from 1969 to present.
Children: Thuy (daughter), Nhat (son), Anh (daughter), and Minh (son).
Settled in USA in 1980.

Mẹ Tôi

Hôm nay tuyết trắng phủ đầy sân ,
Gió lạnh đường trơn trẻ nghỉ nhà .
Chợt nhớ quê hương đầy nắng ấm ,
Thương người mẹ trẻ góa ngày xưa .

Tôi mồ côi lúc tuổi còn thơ .
Cha mất khi cùng bạn vắng xa
Chống Pháp gian tà , lòng ái quốc
Nung nấu sâu hơn nỗi nhớ nhà .

Mẹ là dâu trưởng trong gia đình ,
Dịu dàng lễ phép với ân tình .
Ông bà thương cháu và yêu mẹ
Sớm góa nuôi con thủ tiết trinh .

Giã từ thành thị , mẹ về Ngoại .
Ông bà thương cháu còn thơ dại ,
Nâng niu chăm sóc quanh năm tháng ,
Mở rộng vòng tay chẳng trách ai .

Mẹ dạy các con học vỡ lòng .
Mẹ đưa anh cả đến trường công .
Mẹ ru em gái , khi em ngủ ,
Em mới đầy năm má trắng hồng .

Tròn tuổi hai lăm mẹ rất xinh .
Nhiều ong với bướm lượn quanh mình .
Thương con goá trẻ cô đơn sống ,
Ngoại muốn mẹ lo tái giá nhanh .

Bướm trình với Nội bướm thay cha ,
Yêu vợ chăm con như ruột rà .
Dâu trẻ Nội thương như cốt nhục ,
Nên khuyên sớm nhận lời người ta.

Lệ rơi ướt má Mẹ thưa trình .
Muốn vui sống với đàn con xinh .
Người xưa dù mất tình còn mãi .
Nào nghĩ chi hơn đến phận mình .

Ngọc Hạnh
Ngày 14/1/2015

Chú thích của Khai Phi
Ảnh do Khai Phi sưu tầm, được đặt dưới bốn câu thơ cuối để minh họa bốn câu thơ này, bốn câu thơ có thể nói là chính của bài thơ.

Nguyễn Thị Ngọc Hạnh

Sinh tại Sa Đéc, Việt Nam.
Thi sĩ.
Văn sĩ.

Cử Nhân Văn Chương Đại Học Văn Khoa Saigon, Việt Nam.
Giáo Sư Văn Chương Trường Trung Học Nguyễn Trãi và Lê Thị Hồng Gấm cho đến năm 1979.
Di cư sang Mỹ năm 1980 và định cư tại Virginia.

Born in Sa Dec, Vietnam
Poetess.
Writer.
Master of Literature of Saigon University of Literature.
Literature Teacher at Nguyen Trai and Le Thi Hong Gam High Schools until 1979.
Migrated to USA in 1980 and settled in Virginia.

Khi Đã Yêu

Khi  đã yêu  thì mơ  mộng nhiều.
Mơ  ngày mai  pháo nhuộm  đường vui.
Mơ  làn môi  thơm ngát  hương đời.
Tình kia phong kín mây trời.
Nhưng yêu  riêng một  người thôi.

Khi  đã yêu  thì lo  sợ nhiều.
Lo  chiều thôi  nắng nhạt  màu tươi.
Lo  niềm tin  chưa thấm  tim người,
Tình kia  thêm vỡ  tan thôi,
Đêm đêm  ngấn lệ  đầy vơi…

Chớ nói  tình yêu  bằng  chót lưỡi  đầu môi,
Bằng  khóe mắt  xa vời
Thì dẫu  sau này  nên câu  luyến ái,
Ân tình  còn thương  mãi mãi
Hương thề  trọn kiếp  không phai.

Bao  ước mơ  còn trong  đợi chờ
Cho  nghìn sau  nối lại  nghìn xưa,
Cho  nguồn yêu  dâng kín  tim người,
Ngày vui  hai đứa  chung đôi.
Khi yêu  yêu một  người thôi…

 

Khi  đã yêu  thì lo  sợ nhiều.
Lo  chiều thôi  nắng nhạt  màu tươi.
Lo  niềm tin  chưa thấm  tim người,
Tình kia  thêm vỡ  tan thôi,
Đêm đêm  ngấn lệ  đầy vơi…

Chớ nói  tình yêu  bằng  chót lưỡi  đầu môi,
Bằng  khóe mắt  xa vời
Thì dẫu  sau này  nên câu  luyến ái,
Ân tình  còn thương  mãi mãi
Hương thề  trọn kiếp  không phai.

Bao  ước mơ  còn trong  đời chờ
Cho  nghìn sau  nối lại  nghìn xưa,
Cho  nguồn yêu  dâng kín  tim người,
Ngày vui  hai đứa  chúng đôi.
Khi yêu  yêu một  người thôi.
Cho  nguồn yêu  dâng kín  tim người,
Ngày vui  hai đứa  chung đôi.
Khi yêu.. yêu một.. người thôi….

Khai Phi ngắt câu để hát

Au Fond Du Temple Saint_Tại Cuối Đền Thờ Thánh

The duet “Au Fond Du Temple Saint” is one of the most loved duets in all operatic literature.  It is from the 1863 opera Les Pêcheurs De Perles (The Pearl Fishers) by French composer Georges Bizet (1838-1875).  Bizet is perhaps best known for another opera, the masterpiece Carmen.  Les Pêcheurs De Perles was written earlier, and was not well received by critics at the time.  However, the opera was premiered before Bizet’s 25th birthday, and showed a remarkable ability for somebody so young.

Song ca “Au Fond Du Temple Saint” (“Tại Cuối Đền Thờ Thánh”) là một trong những song ca được yêu chuộng nhất trong tất cả kịch bản đại hý viện. Song ca này bắt nguồn từ kịch bản đại hý viện Les Pêcheurs De Perles (Những Người Bắt Ngọc Trai) năm 1863 của tác giả người Pháp Georges Bizet (1838-1875). Bizet có lẽ nổi tiếng nhất trong một kịch bản đại hý viện khác, đó là kiệt tác Carmen. Les Pêcheurs De Perles đã được viết trước và đã không được khá tiếp nhận bởi những nhà phê bình thời đó. Tuy nhiên, kịch bản này được trình diễn lần đầu tiên trước sinh nhật thứ 25 của Bizet, và đã cho thấy khả năng đáng chú ý của một người rất trẻ tuổi.

After Bizet’s death, Les Pêcheurs De Perles enjoyed a revival, and modern critics have looked upon the opera much more favorably than Bizet’s contemporaries.  Although the entire opera is not performed as often as Carmen, this famous tenor-baritone duet has become a classic in its own right.  It is often performed separately from the whole opera as a feature in concert or recital.

Sau khi Bizet qua đời, Les Pêcheurs De Perles đã được hồi sinh thưởng thức, và những nhà phê bình tân tiến đã có một cái nhìn về tác phẩm đại hý viện này một cách yêu thích hơn các nhà phê bình cùng thời với Bizet. Mặc dầu toàn thể kịch bản không được trình diễn nhiều lần như Carmen, song ca nổi tiếng giọng tenor-baritone (cao-trung) này đã trở thành một sản phẩm nổi tiếng có giá trị lớn trong thẩm quyền riêng của nó. Song ca này thường được trình diễn tách ra khỏi nguyên vở kịch đại hí viện như là một đặc biệt của đại hòa nhạc hoặc một nhóm hòa nhạc.

“Au Fond Du Temple Saint” focuses on the relationship between Nadir (tenor) and Zurga (baritone), who had both fallen in love for the same woman, Leila (soprano).  As they sing the duet, they are reuniting after a time apart.  They sing of the time they were in conflict over Leila and recall their oath to renounce their love for her and pledge undying friendship to each other instead.

“Au Fond Du Temple Saint” tập trung diễn tả mối quan hệ giữa Nadir (tenor_giọng nam cao) và Zurga (baritone_giọng nam trung), hai người đã một thời cùng yêu một người đàn bà là Leila (soprano_giọng nữ cao). Trong khi hai người hát bản song ca, họ đoàn kết lại sau một thời gian chia lìa. Họ hát về một thời xung đột nhau vì Leila và hồi tưởng lại lời hứa chối bỏ tình yêu với nàng cùng tuyên bố nguyện làm bạn suốt đời.

As is often the case in opera, their friendship falls apart shortly thereafter when Nadir sees Leila and immediately rushes into her arms again.  Zurga finds out and orders them both to be killed.

Như trong vở kịch, tình bạn của họ sau đó nhiều lần tan vỡ khi Nadir gặp lại Leila, liền chạy tới sa vào đôi vòng tay của nàng. Zurga thấy được và hạ lệnh giết đôi tình nhân.

However, this duet expresses the intent to remain lifelong friends, foreshadowing a resolution that saves Nadir in the end.  Zurga discovers later that Leila had saved his life when she was just a young child.  Seeing her as that child instead of a romantic partiner, his anger subsides, and he sets Leila and his friend Nadir free to be together at the end of the opera.

Tuy nhiên, song ca này diễn tả ý muốn giữ lại tình bạn suốt đời, cho thấy dấu hiệu một giải quyết cứu sống Nadir vào lúc chót. Zurga khám phá ra rằng Leila đã cứu sống mình khi nàng chỉ mới là một trẻ thơ. Thấy nàng như đứa trẻ thơ thay vì một tình nhân thơ mộng, Zurga nguôi giận, tha cho Nadir và Leila được tự do yêu nhau, sự việc này xảy ra vào lúc kết của vở kịch.

The recording of Jussi Björling and Robert Merrill is considered one of the best renditions of this incredible duet.  Feel free to listen and enjoy.

Bản ghi âm song ca Jussi Björling and Robert Merrill này được xem như là một trong những trình diễn hay nhất của khúc nhạc song ca “Au Fond Du Temple Saint” hay ngoài sức tưởng tượng. Hãy tự do nghe và thưởng thức.

Matthew Smith
Khai Phi dịch sang Việt Văn_Translation into Vietnamese by Khai Phi

Au Fond Du Temple Saint
Tại Cuối Đền Thờ Thánh
At The Back Of The Holy Temple

Nadir (Jussi Björling’s singing_ do Jussi Björling hát):
Au fond du temple saint
Tại cuối đền thờ thánh
At the back of the holy temple
Paré de fleurs et d’or,
Được trang hoàng bằng hoa và vàng,
decorated with flowers and gold,
Une femme apparaît ! (*)
Một người đàn bà xuất hiện!
A woman appears !
Zurga (Robert Merrill’s_singing_do Robert Merrill hát):
Une femme apparaît !
Một người đàn bà xuất hiện!
A woman appears !
Nadir (Jussi Björling_right_ bên phải trong ảnh)
Je crois la voir encore !
Tôi tin tôi vẫn còn thấy nàng
I believe I still see her !
Zurga (Robert Merrill_left_ bên trái trong ảnh)
Je crois la voir encore !
Tôi tin tôi vẫn còn thấy nàng !
I believe I still see her !

Nadir
La foule prosternée
Đám đông đã quỳ xuống
The prostrate crowd
La regarde, étonnée,
Nhìn nàng, sửng sốt,
Looks at her amazed
Et murmure tout bas
Và thầm thì
And murmurs under its breath
Voyez, c’est la déesse
Hãy xem kìa, vị nữ thần
Look, this is the goddess
Qui dans l’ombre se dresse
Đang đứng lên trong bóng tối
Looming up in the shadow
Et vers nous tend les bras !
Và hướng thẳng đôi cánh tay về phía chúng ta !
And holding out her arms to us !
Zurga
Son voile se soulève !
Chiếc mạng che mặt của nàng từ từ vén lên !
Her veil parts slightly !
Ô vision ! ô rêve !
Ôi đẹp biết bao ! Ôi đẹp như trong mộng !
What a vision ! What a dream !
La foule est à genoux !
Đám đông quỳ xuống
The crowd is kneeling !
Both
Cả hai Nadir và Jurga
Oui, c’est elle !
Vâng, đó là nàng !
Yes, it is she !
C’est la déesse
Chính là vị nữ thần
It is the goddess
Plus charmante et plus belle !
Duyên dáng thêm và đẹp thêm lên !
More charming and more beautiful.
Oui, c’est elle !
Vâng, đó là nàng !
Yes, it is she !
C’est la déesse
Chính là vị nữ thần
It is the goddess
Qui descend parmi nous !
Đang đi xuống giữa chúng ta !
Who has come down among us !
Son voile se soulève
Chiếc mạng che mặt của nàng từ từ vén lên !
Her veil has parted
Et la foule est à genoux !
Và đám đông quỳ xuống !
And the crowd is kneeling !

Nadir
Mais à travers la foule,
Nhưng xuyên qua đám đông,
But through the crowd,
Elle s’ouvre un passage !
Nàng đang mở một đường đi !
She makes her way !
Zurga
Son long voile déjà
Chiếc mạng dài của nàng đã
Already her long veil
Nous cache son visage !
Che dấu chúng ta khuôn mặt của nàng !
Hides her face from us !
Nadir
Mon regard, hélas !
Tầm mắt của tôi, hỡi ơi !
My eyes, alas!
La cherche en vain !
Tìm nàng một cách vô vọng !
Seek her in vain !
Both
Cả hai Nadir và Jurga
Oui, c’est elle !
Vâng, đó là nàng !
Yes, it is she,
C’est la déesse !
Chính là vị nữ thần
It is the goddess
En ce jour qui vient nous unir.
Hôm nay đến đoàn kết hai chúng ta.
Who comes to unite us this day.
Et fidèle à ma promesse,
Và tôi xin cam kết giữ lời hứa,
And, faithful to my promise,
Comme un frère je veux te chérir !
Nguyện quý mến bạn như anh em !
I wish to cherish you like a brother!
C’est elle,
Vâng, đó là nàng !
It is she,
C’est la déesse
Chính là vị nữ thần
It is the goddess,
Qui vient en ce jour nous unir !
Hôm nay đến đoàn kết hai chúng ta.
Who comes to unite us this day!
Oui, partageons le même sort,
Vâng, chúng ta hãy chia xẻ cùng một số mệnh,
Yes, let us share the same fate,
Soyons unis jusqu’à la mort !
Hãy đoàn kết với nhau cho đến cuối cuộc đời !
Let us be united until death !

(*) Leila

Khai Phi dịch sang Việt Văn
Translation into Vietnamese by Khai Phi

Lesson 1. Cách Đọc (Phát Âm) Chữ Anh_Pronunciation Of English Words

Thí dụ: word (uốt-đ) = một chữ, một lời.
1. Những dấu sắc (‘), huyền (`) và nặng (.) đọc nhẹ thôi, đừng đọc nặng (nhấn mạnh) như tiếng Việt.
2. Để ý là chữ đ viết nghiêng.
3. Chữ đ dọc là đờ, nhưng vì chữ đ viết nghiêng nên đọc dấu huyền (`) rất nhẹ và rất nhanh hoặc đọc thầm rất nhẹ và rất nhanh.

Chữ đ đọc là đờ chứ không phải là đê.
Do đó, chữ b đọc là bờ, c là cờ, k là cờ, ph là phờ, g là gờ, h là hờ, l là lờ, m là mờ, n là nờ, p là pờ, r là rờ, s là sờ, t là tờ, v là vờ, x là xờ, z là dờ.

Pronunciation (prô nần xiê shần) = cách đọc (phát âm).
Of (op-ph) = của.

Khai Phi